Khánh Hoà là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích tự nhiên là 5217 km2, biển Khánh Hoà có chiều dài tính theo mép nước khoảng 385 km2; có khoảng 200 đảo gần bờ và thuộc quần đảo Trường Sa; đặc biệt có 3 vịnh nổi tiếng là Cam Ranh, Nha Trang, Vân Phong và 2 đầm lớn là Thuỷ Triều, Nha Phu. Trong đó có các hệ sinh thái biển đặc trưng nhất là rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn, về mức độ đa dạng sinh học đã ghi nhận được 104 ha rừng ngập mặn, 1862 ha thảm cỏ biển và 3256 ha rạn san hô phân bố trong vùng biển ven bờ Khánh Hoà. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển.
Tuy nhiên, tài nguyên và môi trường vùng ven biển Khánh Hòa đang chịu áp lực lớn từ nhiều phía như: hoạt động khai thác thủy sản quá mức; nuôi trồng thủy sản tự phát không theo quy hoạch; áp lực từ hoạt động phát triển du lịch; xây dựng hay mở rộng các khu nghỉ dưỡng, bến thuyền, quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương…đã và đang làm mất đi nhiều diện tích cỏ biển, san hô, rừng ngập mặn và nguồn lợi thủy sản cạn kiệt, môi trường biển ven bờ bị ô nhiễm. Do đó cần có phương pháp quản lý tổng hợp để phát triển bền vững vùng ven biển ở Khánh Hoà. Một trong những phương pháp đang được thế giới áp dụng cũng như tại Việt Nam là phương pháp quản lý tài nguyên và môi trường biển dựa vào cộng đồng.
Chi cục Biển và Hải đảo Khánh Hòa thực hiện nhiệm vụ “Điều tra, đánh giá vai trò cộng đồng địa phương trong quản lý tài nguyên môi trường biển; Đề xuất phương thức đồng quản lý” và đã được nghiệm thu theo Quyết định số 216/QĐ-STNMT ngày 25/7/2014 của Sở Tài nguyên và Môi trường. Kết quả nhiệm vụ cho thấy 97,22% ý kiến đánh giá tầm quan trọng của cộng đồng địa phương trong việc tham gia quản lý tài nguyên môi trường biển. Phương thức quản lý tài nguyên và môi trường biển dựa vào cộng đồng là một tập hợp mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng; trong đó, cộng đồng là người đưa ra quyết định cuối cùng về tất cả các vấn đề liên quan đến quá trình lập kế hoạch và triển khai thực hiện. Với cách thức này sẽ tăng sự chủ động, thúc đẩy cộng đồng cùng chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về quy chế dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Phương thức quản lý dựa vào cộng đồng là một trong 5 phương thức quản lý: quản lý Nhà nước tập trung, quản lý có sự tham gia cộng đồng, quản lý dựa vào cộng đồng, đồng quản lý dựa vào cộng đồng, cộng đồng tự quản lý. Trong đó phương thức quản lý dựa vào cộng đồng có 5 cấp độ đánh giá mức độ tham gia của cộng đồng: (1) Cấp độ thông báo/hướng dẫn: Nhà nước ra quyết định, thông báo, hướng dẫn cộng đồng tham gia quản lý. (2) Cấp độ tham vấn/cố vấn: cộng đồng cung cấp thông tin, Nhà nước tham khảo ý kiến cộng đồng để đưa ra quyết định, thông báo, hướng dẫn cộng đồng tham gia quản lý. (3) Cấp độ hợp tác/cùng thực hiện: cộng đồng có cơ hội và được phép tham gia thảo luận, góp ý kiến để đưa ra quyết định và được tham gia quản lý. (4) Cấp độ đối tác/tư vấn: Nhà nước và cộng đồng cùng quản lý. (5) Cấp độ chủ trì/ thông tin: cộng đồng là người nắm bắt thông tin, quyết định các hoạt động với vai trò tự quản lý; nhà nước lúc này trao quyền quản lý cho cộng đồng và chỉ thực hiện quyền kiểm soát.
Xét về góc độ hiệu quả quản lý thì phát triển hình thức quản lý dựa vào cộng đồng sẽ giảm gánh nặng cho cơ quan quản lý Nhà nước.
- Về mặt tài chính, quản lý dựa vào cộng đồng là một mô hình hiệu quả trong huy động vốn đầu tư xã hội, giúp giảm tải vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
- Về mặt quản lý, hình thức quản lý dựa vào cộng đồng giúp chuyển giao trách nhiệm quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường cho cộng đồng, làm giảm tải công tác quản lý hằng ngày của chính quyền địa phương.
- Về mặt kinh tế thì hình thức quản lý dựa vào cộng đồng giúp cho việc khai thác tài nguyên biển đạt được giá trị sử dụng cao hơn và bền vững hơn.
Cách thức thực hiện Phương thức quản lý tài nguyên môi trường biển dựa vào cộng đồng gồm các bước sau:
- Xác định nhu cầu thực hiện, gồm có: xác định vùng, phạm vi thực hiện; xác định mức độ đa dạng sinh học vùng quản lý; xác định mức độ ưu tiên; xác định hiện trạng sử dụng tài nguyên môi trường vùng quản lý; xác định mức độ phụ thuộc của người dân đến tài nguyên môi trường; mức độ xung đột, mâu thuẫn giữa các bên tham gia sử dụng tài nguyên và môi trường; xác định rõ đối tượng, chủ thể quản lý; xác định năng lực cán bộ, cộng đồng thực hiện quản lý.
- Xác định điều kiện thực hiện, gồm có: sự cam kết của chính quyền địa phương và cộng đồng, xác định mục tiêu và xây dựng lộ trình thực hiện; xây dựng chiến lược thực thi, tiến hành đánh giá các nguồn lực hiện có.
- Tổ chức thực hiện, gồm có:
- Nâng cao nhận thức và phát triển năng lực: mục tiêu là trang bị kiến thức cho các bên tham gia thực hiện chương trình.
- Xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện: đó là xây dựng một thể chế chính thức có hiệu lực và hiệu quả, được cơ quan quản lý Nhà nước cũng như cộng đồng địa phương thừa nhận.
- Xây dựng tham vấn Quy chế hoạt động của tổ/nhóm/ban.
- Xây dựng kế hoạch quản lý.
- Kiểm tra, giám sát và nhân rộng mô hình.
Một mô hình điển hình tại Khánh Hoà về quản lý tài nguyên và môi trường biển dựa vào cộng đồng là mô hình Khu bảo vệ Hệ sinh thái biển Rạn Trào. Được thành lập theo quyết định 1738/QĐ-UBND ngày 28/8/2008 của UBND huyện Vạn Ninh – Khu bảo vệ Hệ sinh thái biển Rạn Trào trở thành khu bảo tồn cấp địa phương đầu tiên của Việt Nam. Rạn Trào là một trong nhiều rạn san hô thuộc vịnh Vân Phong, thuộc vùng biển xã Vạn hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Rạn Trào được cộng nhận với vùng lõi bảo vệ là 54 ha, ranh giới vùng đệm cách ranh giới vùng lõi là 100 m về các hướng. Rạn Trào có diện tích tương đối nhỏ nhưng có hệ dộng thực vật phong phú, đa dạng so với toàn bộ vinh Vân Phong, gồm có: động thực vật phù du là 145 loài, san hô là 82 loài, cá rạn là 69 loài , động vật đáy là 190 loài.
Ban quản lý Rạn Trào được thành lập gồm đại diện của UBND huyện, đại diện UBND xã, phòng TNMT huyện, phòng NNPTNT huyện, phòng Tài chính Kế hoạch huyện, Đồn Biên Phòng, Đội Thanh tra thuỷ sản, đại diện cộng đồng. Thành lập các tổ tự quản tại địa phương theo phương thức dân chủ, công khai trước cộng đồng và là những cộng đồng ưu tú gồm các tổ: Hạt nhân bảo vệ, nhóm nồng cốt thuỷ sản, nhóm tuyên truyền, nhóm du lịch sinh thái. Kể từ khi có quyết định thành lập, Ban quản lý Rạn Trào đã xây dựng 2 kế hoạch quản lý ở các gia đoạn 2009-2010; 2013-2015; đồng thời xây dựng hoàn thiện Quy chế cộng đồng quản lý Khu bảo vệ Hệ sinh thái biển Rạn trào. Từ 2008 đến nay, mô hình Rạn Trào đã ghi nhận được các kết quả sau: Nâng cao nhận thức, kĩ năng, năng lực của cộng đồng và cán bộ địa phương; góp phần bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hệ sinh thái vùng ven biển, giữ gìn cải thiện cảnh quan môi trường ven biển; Hỗ trợ tạo dựng sinh kế bền vững cho người dân nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ sản, đồng thời chuyển đổi và phát triển các sinh kế bổ trợ cho người dân; bước đầu trao quyền quản lý, xây dựng kế hoạch, giám sát tài nguyên môi trường biển cho cộng đồng; đồng thời là mô hình điển hình để các địa phương và các tổ chức trong ngoài nước tham quan học tập. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế như: chưa có bộ máy quản lý chuyên biệt, cơ sở vật chất còn hạn chế; chưa có sự phối hợp chắt chẽ giữa các cơ quan đơn vị quản lý về tài nguyên môi trường biển; chưa xây dựng được cơ chế tài chính bền vững.
Quản lý tài nguyên môi trường biển dựa vào cộng đồng là một phương thức quản lý hiệu quả ít tốn kém; tuy nhiên để mô hình thực sự bền vững và nhân rộng ở nhiều địa phương khác thì cần có sự hỗ trợ can thiệp của các cấp, cơ quan đơn vị liên quan. Nhằm tăng cường hiệu quả phương thức quản lý tài nguyên môi trường biển dựa vào cộng đồng tại địa phương thì cần thực hiện các giải pháp sau:
Xây dựng cơ chế chính sách: tiến hành nghiên cứu và thực hiện phân vùng sử dụng tài nguyên môi trường vùng biển ven bờ toàn tỉnh Khánh Hòa; Xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi giao diện tích mặt nước biển cho các doanh nghiệp có hoạt động du lịch hoặc sản xuất kinh doanh gắn liền với tài nguyên môi trường biển; Xây dựng cơ chế quản lý phối hợp giám sát thực thi pháp luật giữa cơ quan QLNN, chính quyền địa phương, cộng đồng địa phương và doanh nghiệp; Xây dựng Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội gắn với công tác bảo tồn.
Tham gia nghiên cứu, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học: đầu tư nghiên cứu khoa học, tìm kiếm giải pháp, phương pháp khôi phục, nhân giống, tái tạo tài nguyên môi trường biển đảo (cấy ghép san hô, sản xuất giống nhân tạo các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao,… )
Tăng cường năng lực, truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên môi trường biển: có chính sách đào tạo, tăng cường nguồn nhân lực; cung cấp các kiến thức về đa dạng sinh học, tầm quan trọng của các hệ sinh thái, tài nguyên biển đảo cho cán bộ quản lý và cộng đồng ven biển.
Phát triển sinh kế cho người dân ven biển: triển khai thí điểm một số mô hình sinh kế bền vững, thân thiện với môi trường hoặc xây dựng kế hoạch quy hoạch ngành nghề, chuyển đổi sinh kế hoặc hình thành sinh kế bổ trợ cho nhóm cộng đồng phục thuộc vào tài nguyên biển.
Giải pháp tài chính bền vững: Xây dựng kế hoạch tài chính trong công tác bảo tồn gắn với hoạt động phát triển kinh tế xã hội của địa phương; tranh thủ các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước; phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch biển đảo cộng đồng tạo nguồn thu trong việc bảo tồn và phát triển tài nguyên và môi trường biển